DU HỌC NGHỀ ĐỨC, MIỄN HỌC PHÍ

English for Information Technology Lesson 7: Types of memory (Reading)

Tổng hợp những bài học Tiếng Anh dành riêng có các mem có nhu cầu tìm hiểu về ngành Information Technology - Công nghệ thông tin nè. Cùng tham khảo nha 

English for Information Technology Lesson 7: Types of memory (Reading)

 

As mentioned previously, one of the most important characteristics of a computer is its capability of storing information in its memory long enough to process it. Not all computers have the same type of memory. In this section, three types of memory will be discussed: core memory, semiconductor memory (or chip), and bubble memory.

The memory of the first computers was made up of a kind of grid of fine vertical and horizontal wires. At each intersection where the wires crossed, there was a small ferrite ring called a core (hence the name "core memory") which was capable of being either magnetized or demagnetized. Every intersection had its unique address: consequently, when an electrical current was passed through the wires, the magnetized as well as the unmagnetized cores were identifted by their respective addresses. Each core represented a binary digit of either 0 or 1, depending on its state. Early computers had a capacity of around 80,000 bits; whereas now, it is not surprising to hear about computers with a memory capacity of millions of bits. This has been made possible by the advent of transistors and by the advances in the manufacture of miniaturized circuitry. As the result, mainframes have been reduced in both size and cost. Throughout the 1950s, 1960s and up to the mid 1970s, core memory dominated the market.

In the 1970s, there was a further development which revolutionized the computer field. This was the ability to etch thousands of integrated circuits onto a tiny piece (chip) of silicon, which is a non-metallic element with semiconductor characteristics. Chips have thousands of identical circuits, each one capable of storing one bit. Because of the very small size of the chip, and consequently of the circuits etched on it, electrical signals do not have to travel far, hence, they are transmitted faster. Moreover, the size of the components containing the circuitry can be considerably reduced, a step which has led to the introduction of both minis and micros. As a result, computers have become smaller,faster, and cheaper. There is one problem with semiconductor memory, however: when power is removed, information in the memory is lost unlike core memory, which is capable of retaining information during a power failure.

Another development in the fteld of computer memories is bubble memory. The concept which consists of creating a thin film of metallic alloys over the memory board. When this film is magnetized, it produces magnetic bubbles, the presence, or absence of which represents one bit of information. These bubbles are extremely tiny, about 0.1 micrometer in diameter. Therefore, a 
magnetic bubble memory can store information at a greater density than existing memories, which makes it suitable for micros. Bubble memories are not expensive, consume little power, are small in size, and are highly reliable. There is probably a lot more to learn about them, and research in this field continues.

Bài dịch

1. Như đề cập trước đây, một trong những đặc tính quan trọng nhất của máy tính là khả năng lưu trữ thông tin trong bộ nhớ của nó có đủ thời gian cần thiết để xử lý. Không phải tất cả các máy tính đều có một loại bộ nhớ như nhau. Trong phần này ta sẽ thao luận ba loại bộ nhớ: bộ nhớ lõi, bộ nhớ bán dẫn và bộ nhớ bọt từ.

2. Bộ nhớ của máy tính đầu tiên được chế tạo bằng một loại mạng lưới làm bằng dây kim loại mảnh đan ngang dọc. Tại mỗi điểm nơi các dây giao nhau có một vòng ferit nhỏ gọi là lõi (do vậy có tên là bộ nhớ lõi từ) có khả năng từ hoá hoặc khử từ được. Mỗi giao điểm có một địa chỉ duy nhất, do đó khi dòng điện chạy qua dây, các lõi từ bị hoá cũng như khử tử được nhận ra qua địa chỉ riêng của chúng. Mỗi lõi từ được tiêu biểu cho một số nhị phân 1 hoặc 0, tuỳ theo trạng thái của nó. Các máy tính ban đầu có khoảng 80000 bit trong khi đó hiện nay chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi nghe về bộ nhớ hàng triệu bit. Điều này có thể thực hiện được do sự ra đời của transitor và do sự chế tạo các mạch được thu nhỏ. Vì thế máy tính cái đã giảm bớt kích cỡ cũng như giá cả. Suốt những năm 50, 60 và cho đến giữa những năm 1970 bộ nhớ lõi từ vẫn chiếm lĩnh trên thị trường.

3. Vào những năm 70, một bước phát triển khác đã cách mạng hoá ngành máy tính. Đó là khả năng khắc hàng loạt mạch tích hợp lên một mảng silicon nhỏ xíu gọi là chip, silicon là một chất phi kim loại có đặc tính bán dẫn. Chip có hàng ngàn mạch giống hệt nhau, mỗi mạch có khả năng trữ một bit. Do kích thước rất nhỏ của chip cũng như các mạch khắc trên nó, nên tín hiệu dòng điện không phải đi xa, do đó chúng được truyền nhanh hơn. Hơn nữa kích thước của các thành phần chứa mạch có thể giảm đi đáng kể từ đó dẫn đến việc ra dời máy tính mini và máy vitính. kết quả là máy tính trở nên nhanh hơn, nhỏ hơn và rẻ hơn. Tuy nhiên bộ nhớ bán dẫn vẫn là một trở ngại: khi dòng điện bị ngắt, thông tin trong bộ nhớ sẽ mất đi-không như bộ nhớ lõi từ có khả năng giữ lại thông tin trong suốt thời gian mất điện.

4. Một bước phát triển khác trong lĩnh vực bộ nhớ máy tính là bộ nhớ bọt từ. Khái niệm bao gồm cách tạo ra một màng phim mỏng bằng hợp kim lên trên mặt bằng bộ nhớ. khi màng phim này bị từ hoá, nó tạo thành những bọt từ, sự hiện diện hay vắng mặt của nó tượng trưng cho một bit thông tin. Những bọt từ này cực nhỏ, đường kích khoảng 0,1 micromet. Vì thế bộ nhớ bọt từ có thể lưu trữ thông tin với mật độ lớn hơn các bộ nhớ hiện có, điều này làm cho nó phù hợp với máy vi tính. Bộ nhớ từ không đắt tiền tiêu thụ ít điện, kích thước nhỏ và độ tin cậy cao. Có lẽ người ta vẫn còn học hỏi nghiên cứu nhiều về lĩnh vực này.

 
CHUYỂN ĐỔI VĂN BẰNG ĐIỀU DƯỠNG ÁO