English for Information Technology Lesson 8: Disk and disk drive (Reading)
Tổng hợp những bài học Tiếng Anh dành riêng có các mem có nhu cầu tìm hiểu về ngành Information Technology - Công nghệ thông tin nè. Cùng tham khảo nha
English for Information Technology Lesson 8: Disk and disk drive (Reading)
English for Information Technology Lesson 8: Disk and disk drive (Reading)
Tapes are an example of sequential-access memory technology; an example of randomaccess or direct-access secondary memory devices is the magnetic disk. It provides a large amount of storage and rapid retrieval of any stored information. All disks are made of substance coated with metal oxide, and can therefore be magnetized.
Magnetic disks are of two kinds, namely floppy and hard. The hard disks, in turn, are subdivided into fixed-head and moving-head disks which are either cartridge or pack. Floppy disks, or diskettes as they are called, are made from plastic, which makes them very light, flexible, are quite inexpensive, whereas hard disks are made from a rigid material.
A disk cartridge is made of a circular disk called a platter, about the same size as a longplaying record, which can be magnetized on both sides. When a number of these circular platters are stacked one on top of the other, they are called a disk pack. How many platters there are in a disk pack varies depending on the manufacturer and the model.
The recording surface of a disk has concentric circles called tracks, which are similar to the grooves in a record. Information is stored on a track in magnetized spots called bits. These bits are similar to the bits in internal memory and are situated on the track such that usually every eight of them make up one byte.
To access information from a cartridge, it is mounted on a disk drive which is equipped with two recording heads, one for each side of the disk. The heads move radially along a line from the center to the outside from track to track. To access information from a disk pack, the recording heads are moved back and forth in the space between the platters by the access arms to which they are attached.
A stack of track is called a cylinder and it is accessed by all the recording heads acting at once. The recording capacity of a disk pack is measured in terms of a number of cylinders, the number of tracks, and the amount of data in each track.
Information on a disk is organized in terms of blocks, each having its own address, which consists of a cylinder number, a track number, and a record number. To access directly the necessary information, the recording heads first seek the required cylinder, then search to find the begining of the required record, and then transfer the information to the memory of the computer or to another form of storage, all of which is done in a few milliseconds.
Dust and dirt cause the recording condition of disks to deteriorate. As a result, data packs, which are disks with the recording heads sealed inside, were developed. They are more expensive than the nonnal disk packs but the drives on which they are mounted are cheaper than the normal disk drives.
Disk drives are of two kinds: drives with a single non-removable platter, and drives in which disks can be changed. The latter kind is further subdivided into top-loading single platter, front-loading single platter, and top-loading multiple platter. Some disk drives open from the top, where single platter disks are placed. Other drives open in the front and single platter disks, either hard disks or diskettes, are inserted. For very long storage, the top-loading multiple platter drives are used.
After being mounted on a disk drive, disks are kept spining at a very high and constant speed, thus allowing the recording heads to have direct access to the required information. For example, the pack on the IBM 3330 spins at 60 revolutions per second.
Bài dịch
1. Băng từ là một ví dụ về công nghệ bộ nhớ truy cập tuần tự, một ví dụ về tuần tự các bộ nhớ phụ truy cập ngẫu nhiên hoặc truy cập trực tiếp là đĩa từ. Nó cung cấp một số lượng lưu trữ lớn và tìm kiếm nhanh bất cứ thông tin nào đã lưu. Tất cả các đĩa được làm bằng một chất được tráng ô xit kim loại nên có thể từ hoá được.
2. Đĩa từ có hai loại, đĩa mềm và đĩa cứng. Đĩa cứng lần lượt được chia nhỏ thành đĩa có đầu cố định và đĩa có đầu di động gồm hộp đĩa hay bộ đĩa. Đĩa mềm hay còn gọi là diskette làm bằng chất dẻo nên nhẹ, không đắt tiền, trong khi đó đĩa cứng được làm từ chất liệu cứng. Hộp đĩa được làm bằng đĩa tròn hay còn gọi là đĩa ghi, cùng cỡ với một loại đĩa hát có nhiều bài hát, quay 30 phút mỗi mặt, có thể được từ hoá cả hai mặt. Khi một số tấm ghi này được xếp chồng lên nhau, chúng được gọi là bộ đĩa. Số lượng đĩa trong từng bộ đĩa sẽ thay đổi theo từng nhà sản xuất hoặc kiểu mẫu.
3. Mặt ghi của đĩa có những vòng đồng tâm gọi là rãnh giống như rãnh trong đĩa hát. Thông tin được lưu trữ trên rãnh được từ hoá gọi là bit. Những bit này giống như bit trong bộ nhớ chính và được định vị trên rãnh sao cho cớ 8 bit tạo thành một byte.
4. Để truy cập thông tin từ một hộp đĩa, gắn nó vào một ổ đĩa có hai đầu thu, mỗi đầu cho một mặt đĩa. Các đầu thu di chuyển toả tròn dọc theo một đường thẳng từ tâm ra phía ngoài theo từng rãnh một. Để truy cập thông tin từ bộ đĩa các bộ thu gắn trên cần truy cập di chuyển tới lui trong khoảng trống giữa những tấm ghi.
5. Một bộ rãnh gọi là trụ và được truy cập bằng tất cả các đầu thu hoạt động đồng thời.. Dung lượng thu của một bộ đĩa được đo bằng số lượng trụ, số rãnh và số bản ghi. Để truy cập thông tin trực tiếp, trước hết các cần thu di chuyển đến trụ được yêu cầu, sau đó lục tìm nơi khởi điểm của bản ghi được yêu cầu rôi sau đó chuyển thông tin vào bộ nhớ của máy tính hay vào dạng lưu trữ của máy khác, tất cả những việc này được thực hiện trong vài mili giây.
6. Bụi bẩn làm cho khả năng ghi và lưu trữ đĩa mau bị xuống cấp. Do đó các bó dữ liệu là những đĩa có đầu thu gắn sẵn bên trong được phát triển. Chúng đắt tiền hơn bộ đĩa bình thường nhưng các ổ đĩa gắn bộ đĩa này sẽ rẻ hơn bộ đĩa bình thường.
7. Ổ đĩa có hai loại: ổ đĩa có tấm ghi đơn cố định và ổ đĩa có thể thay đổi đĩa. Ổ đĩa sau lại được chia nhỏ thành: tấm ghi đơn nạp trên đỉnh, tấm ghi đơn nạp phía trước và nhiều tấm ghi nạp trên đỉnh.Một số ổ đĩa mở từ phía trên chỗ đặt các tấm ghi đơn. Những ổ đĩa khác mở từ phía trước và đĩa tấm ghi, đĩa cứng hoặc đĩa mềm sẽ được lắp vào. Để lưu trữ được lâu, người ta sử dụng ổ đĩa đa tấm ghi nạp trên đỉnh. Sau ghi đĩa được gắn vào, ổ đĩa sẽ quay với tốc độ rất nhanh,
cho phép các đầu thu truy cập trực tiếp thông tin cần đến. Ví dụ bộ đĩa trong máy IBM 3330 quay được 60 vòng / giây.
Bình luận